Vương triều thứ Hai Mươi Lăm của Ai Cập
Vương triều thứ Hai Mươi Lăm của Ai Cập cổ đại (Vương triều thứ 25) cũng được biết đến với tên gọi Vương triều Nubia hoặc Đế chế Kush là vương triều cuối cùng của Thời kỳ Chuyển tiếp thứ Ba của Ai Cập cổ đại.
Vương triều thứ Hai Mươi Lăm của Ai Cập
|
|||||||||||||
---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|
Tên bản ngữ
| |||||||||||||
760 TCN–656 TCN | |||||||||||||
Ai Cập Kushite năm 700 TCN. | |||||||||||||
Thủ đô | Napata | ||||||||||||
Ngôn ngữ thông dụng | Ai Cập cổ đại, tiếng Nubian | ||||||||||||
Tôn giáo chính | Tôn giáo Ai Cập cổ đại | ||||||||||||
Chính trị | |||||||||||||
Chính phủ | Quân chủ | ||||||||||||
Pharaon | |||||||||||||
• 760 - 752 TCN | Kashta (đầu tiên) | ||||||||||||
• 664 - 656 TCN | Tantamani (cuối cùng) | ||||||||||||
Lịch sử | |||||||||||||
• Thành lập | 760 TCN | ||||||||||||
• Giải thể | 656 TCN | ||||||||||||
Mã ISO 3166 | EG | ||||||||||||
|
Gia đình hoàng gia của Vương triều 25 là một dòng tộc có nguồn gốc từ các nhà cầm quyền ở Nubia, Vương quốc Kush – ngày nay là Bắc Sudan và miền nam Ai Cập và hầu hết các nhà khảo cổ đều cho rằng Napata là quê hương của họ. Họ đã trị vì trong một phần hoặc toàn bộ lãnh thổ của Ai Cập cổ đại, từ năm 760 trước Công nguyên đến 656 trước Công nguyên.[1] Vương triều khởi đầu với cuộc xâm lược Kashta ở Thượng Ai Cập và đạt đến đỉnh cao trong nhiều năm cả các mặt thành công lẫn không thành công trong chiến tranh với người Lưỡng Hà và Đế chế Assyria. Triều đại thứ 25 cũng thống trị Hạ Ai Cập, Thượng Ai Cập, và Đế chế Kush (của người Nubia) tạo được một vương quốc Ai Cập có lãnh thổ rộng nhất kể từ thời kỳ Tân Vương Quốc. Họ đồng hóa vào xã hội do chính phủ Ai Cập cổ đại, họ theo tôn giáo truyền thống, xây dựng các ngôi đền, và các hình thức nghệ thuật, trong khi đó, họ cũng du nhập một số điểm độc đáo của văn hóa Kush.[2] Suốt thời kỳ của Vương triều 25 thì vùng thung lũng sông Nilelần đầu tiên có thể nhìn thấy được các kim tự tháp kể từ thời Trung Vương quốc.[3][4][5] Sau thời Assyria vua Sargon II và Sennacherib đánh bại những nỗ lực của vua người Nubian để đạt giữ được một vùng đất ở Cận Đông của họ, những người kế nhiệm Esarhaddon và Ashurbanipal xâm chiếm Ai Cập, đánh bại và rời khỏi Nubia. Chiến tranh với Assyria dẫn đến sự kết thúc của Vương quốc Kush ở phía Bắc Ai Cập và sự chinh phục của Ai Cập vào Assyria.
Cai trị
sửaPharaon | Tên Ngai | Thời gian cai trị (trước Công Nguyên) | Kim tự tháp | Hoàng hậu |
---|---|---|---|---|
Kashta | Maatre | khoảng năm 760 – 752 TCN | Kurru 8 | Pebatjma (Kurru 7?) |
Piye | Menkheperre Usermaatre | khoảng năm 752 – 721 TCN | Kurru 17 | Tabiry (Kurru 53) Abar (Từ 53?) |
Shabaka | Neferkare | 721 TCN – 707 TCN | Kurru 15 | Qalhata (Kurru 5) Mesbat Tabekenamun? |
Shebitku | Djedkare | 707 TCN – 690 TCN | Kurru 18 | Arty (Kurru 6) |
Taharqa | Khunefertumre | 690 – 664 TCN | Hub 1 | Takahatenamun (Nuri 21?) Atakhebasken (Nuri 36) |
Tantamani | Bakare | 664 – 656 TCN (chết năm 653 TCN) | Kurru 16 | Piankharty [..]salka |
Khoảng thời gian này bắt đầu bởi pharaon Kashta và kết thúc bởi pharaon Malonaqen đôi khi được gọi là Thời kỳ Napatan. Những vị vua cuối cùng của Vương triều thứ 25 đã cai trị các vùng đất là Napata, Meroe, và Ai Cập. Cung điện hoàng gia được đặt ở Napata trong thời gian này, trong khi Meroe cũng là một thành phố lớn. Các vị vua và hoàng hậu đã được chôn cất ở El-Kurru và Nuri.[6]
Phả hệ
sửa? | Alara | Kasaqa | Kashta | Pebatjma | |||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||
Abar | Tabiry | Piye | Khensa | Peksater | Amenirdis I | Neferukakashta | Shabaka | ||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||
Shepenupet II | Tabekenamun | Taharqa | Takahatenamun | Naparaye | Arty | Qalhata | |||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||
Amenirdis II | Shebitku | Tantamani | |||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||
Ảnh
sửa-
Đồ chạm khắc công phu, khoảng năm 670-650 TCN
-
Kashta
-
Piye là một vua Nubian, người đã chinh phục được Ai Cập và cai trị. Đây là kim tự tháp của ông ở Al Kurru, Sudan.
-
Shabaka
-
Shebitku
-
Taharqa trong hình tượng Nhân Sư. Taharqa là con trai của Piye.
-
Tantamani
Chú thích
sửa- ^ Török, László (1998). The Kingdom of Kush: Handbook of the Napatan-Meroitic Civilization. Leiden: BRILL. p. 132. ISBN 90-04-10448-8.
- ^ Bonnet, Charles (2006). The Nubian pharaon s. New York: The American University in Cairo Press. pp. 142–154. ISBN 978-977-416-010-3.
- ^ Mokhtar, G. (1990). General History of Africa. California, USA: University of California Press. pp. 161–163. ISBN 0-520-06697-9.
- ^ Emberling, Geoff (2011). Nubia: Ancient Kingdoms of Africa. New York: Institute for the Study of the Ancient World. pp. 9–11. ISBN 978-0-615-48102-9.
- ^ Silverman, David (1997). Ancient Egypt. New York: Oxford University Press. pp. 36–37. ISBN 0-19-521270-3.
- ^ Dows Dunham, Notes on the History of Kush 850 BC-A. D. 350, American Journal of Archaeology, Vol. 50, No. 3 (July - September, 1946), pp. 378-388
- ^ “Gebel Barkal and the Sites of the Napatan Region”. UNESCO World Heritage Centre.
Tham khảo
sửa- Dodson, Aidan and Hilton, Dyan. The Complete Royal Families of Ancient Egypt. Thames & Hudson. 2004. ISBN 0-500-05128-3.
Vương triều trước | Vương triều của Ai Cập | Vương triều sau |
---|---|---|
Vương triều thứ 24 | 760-656 TCN | Vương triều thứ 26 |