[go: nahoru, domu]

Wake Me Up When September Ends

bài hát của Green Day (2005)

"Wake Me Up When September Ends" (tạm dịch: "Đánh thức tôi khi Tháng 9 kết thúc") là một bài hát của ban nhạc rock người Mỹ Green Day, đồng thời là đĩa đơn thứ tư trích từ abum phòng thu thứ bảy của nhóm mang tên American Idiot (2004). Đây là một bản nhạc rock ballad do ca sĩ chính của ban nhạc là Billie Joe Armstrong sáng tác, nói về cái chết của cha anh vào tháng 9 năm 1982 và cuộc sống của anh sau ngày hôm đó. Ca từ của bài hát được giải thích là nói về các nạn nhân và người sống sót sau Sự kiện 11 tháng 9. Cấu trúc của bài gồm một đoạn chơi bằng guitar acoustic, rồi trình bày bằng guitar điện và tiếng chuông.

"Wake Me Up When September Ends"
Bìa của "Wake Me Up When September Ends": Billie Joe Armstrong ngước lên khi đang hát vào microphone. Tựa bài hát và chữ "Green Day" được in ở góc trên cùng bên trái.
Đĩa đơn của Green Day
từ album American Idiot
Phát hành13 tháng 6 năm 2005 (2005-06-13)
Thể loại
Thời lượng
  • 4:45
Hãng đĩa
Soạn nhạcGreen Day
Viết lờiBillie Joe Armstrong
Sản xuấtRob Cavallo
Thứ tự đĩa đơn của Green Day
"Holiday"
(2005)
"Wake Me Up When September Ends"
(2005)
"Jesus of Suburbia"
(2005)
Video âm nhạc
"Wake Me Up When September Ends" trên YouTube
"Wake Me Up When September Ends" (bản rút gọn) trên YouTube

Ca khúc được phát hành làm đĩa đơn vào ngày 13 tháng 6 năm 2005. Một video âm nhạc đi kèm ca khúc do Samuel Bayer làm đạo diễn, miêu tả một cặp đôi trẻ (do Jamie BellEvan Rachel Wood thể hiện) chia tay sau khi cậu bạn trai nhập ngũ vào Thủy quân lục chiến Hoa Kỳ trong chiến tranh Iraq; số phận của anh cùng sư đoàn vẫn chưa rõ ràng. Bài hát có mặt ở bảng xếp hạng nhiều nước, đạt vị trí thứ sáu trên Billboard Hot 100 của Hoa Kỳ và ngôi quán quân ở các quốc gia như Cộng hòa Séc, còn video của ca khúc trở thành clip được đề xuất nhiều nhất trên Total Request Live và được bầu chọn là video nhạc hay nhất năm 2005 theo một cuộc thăm dò độc giả của tạp chí Rolling Stone.

"Wake Me Up When September Ends" nhận được sự tán dương từ các nhà phê bình, họ xem phần lời và khâu sáng tác là các điểm nhấn của bài. Ca khúc nhận được một chứng nhận bạch kim từ Hiệp hội Công nghiệp Ghi âm Hoa Kỳ (RIAA), và nhận giải Kids' Choice cho bài hát yêu thích tại lễ trao giải Kids' Choice 2006. Với dư âm của bão Katrina, bài hát gắn liền với cơn bão này do một video thịnh hành ghép bài hát với tin tức về bão trên mặt báo; Green Day cũng trình bày ca khúc tại một buổi hòa nhạc từ thiện nhằm góp phần khắc phục hậu quả của bão. Sau khi ra đời, ca khúc đã được sử dụng làm meme internet trong nhiều năm, thường có độ thịnh hành tăng đột biến hàng năm trên các nền tảng phát nhạc trực tuyến trong những ngày cuối của tháng 9.

Hoàn cảnh ra đời và phát hành

sửa

Sau màn thể hiện nghèo nàn trên thị trường thương mại của Warning (2000) - album phòng thu thứ sáu của ban nhạc punk rock người Mỹ Green Day,[1][2] ban nhạc bắt đầu tiến hành làm album phòng thu thứ bảy, lấy tựa là Cigarettes and Valentines. Trong lúc sản xuất album, các đĩa thu demo trong phòng thu bị lấy trộm, buộc Green Day phải hủy dự án và bắt đầu sáng tác album mới từ con số không.[3] Nhờ đó mà album American Idiot được phát hành vào năm 2004.[4] American Idiot là một album chủ đề nhạc punk rock, với nội dung xoay quanh câu chuyện về một thiếu niên (tự nhận mình là "Jesus of Suburbia") trưởng thành ở Hoa Kỳ trong thời gian tại vị của tổng thống George W. Bush và thời điểm diễn ra chiến tranh Iraq; cậu ta phê phán cả Bush lẫn cuộc chiến ấy.[5]

Một bài hát trong American Idiot là "Wake Me Up When September Ends" không hoàn toàn liên quan đến nội dung trọng tâm của album.[6] Bài hát được lấy cảm hứng từ vụ việc người cha của giọng ca chính Billie Joe Armstrong mất vào tháng 9 năm 1982,[5] và được sáng tác nhiều năm trước khi American Idiot ra đời.[7] Trong một lần phỏng vấn với Howard Stern Show, Armstrong cho biết anh tránh sáng tác bài hát nói về cha mình trong nhiều năm, để rồi anh "[có] một bước ngoặt" và sáng tác ca khúc nhằm tri ân người cha quá cố.[7]

American Idiot được phát hành vào ngày 21 tháng 9 năm 2004; "Wake Me Up When September Ends" là bài thứ 11 trong danh sách bài hát chuẩn của album.[8] Ca khúc được chọn làm đĩa đơn thứ tư của album, phát hành vào ngày 13 tháng 6 năm 2005.[9][10] Một bản thu bài hát trực tiếp được đưa vào album ghi trực tiếp Bullet In A Bible, phát hành vào năm 2005.[11] Bài hát đã xuất hiện trong American Idiot - vở nhạc kịch jukebox (2009) dựa trên album và album thu âm của các diễn viên trong tác phẩm (2010).[12][13] Sau đó ca khúc được đưa vào album tuyển tập God's Favorite Band (2017),[14] và sản phẩm tái bản kỷ niệm 20 năm ra đời American Idiot của Green Day, cùng các bản ghi trực tiếp và demo của ca khúc ra mắt vào năm 2024.[15]

Sáng tác và ca từ

sửa

"Wake Me Up When September Ends" là một bản nhạc emo[6] rock ballad với tiết tấu chậm.[5][8] Bài mở đầu bằng một đoạn chơi hợp âm rải trên guitar acoustic, rồi trình bày các nhạc cụ khác như guitar điện và chuông, tạo nên thứ âm thanh mà Jordan Blum của PopMatters ví như "nhịp điệu hành quân".[8] Blum còn viết rằng từng yếu tố trong bài hát "mang nỗi đau để thể hiện chung cảm giác hối hận".[8] Vài giây cuối bài im lặng, rồi bị những nốt nhạc vang vọng trên guitar phá vỡ, Blum miêu tả khúc nhạc ấy "thể hiện dư âm buồn".[8] Một số nhà báo thấy ca khúc có nét tương đồng với "Good Riddance (Time Of Your Life)" - một bài hát khác cũng do Green Day sáng tác ở album trước;[8][16][17] Rob Sheffield của Rolling Stone nhận xét "Wake Me Up When September Ends" là "phần tiếp nối buồn hơn và trưởng thành hơn" của "Good Riddance..."[16]

Phần lời bài hát chủ yếu nói về cuộc đời của Armstrong sau khi ngày cha anh mất, và cuộc đời anh sau ngày hôm đó.[7] Trong suốt ca khúc, Armstrong nhấn mạnh khoảng thời gian sau cái ngày hôm ấy: "Like my fathers come to pass / Seven years has gone so fast,"[a] - câu hát sau đó lặp lại trong bài thành "Twenty years has gone so fast,"[b] ám chỉ rằng bao nhiêu năm tháng đã trôi qua khi anh sáng tác bài hát.[7] Trong khi trải nghiệm cá nhân của Armstrong là cơ sở chính của bài, nhiều người lại thấy ca khúc mang nhiều hàm ý, từ vai trò kể chuyện trong American Idiot cho đến việc giải thích ca khúc là để tri ân các nạn nhân của Sự kiện 11 tháng 9; hàm ý đầu tiên có thêm cơ sở nhờ phần lời ca khúc liên hệ đến một bài hát ra đời trước đó trong album (đặc biệt là "Holiday") và bạn bè cùng gia đình mà nhân vật Jesus of Suburbia bỏ lại trong chuyến đi. Sau khi nhận ra những gì đã đánh mất, cậu ta lựa chọn trở về nhà trong bài hát kế tiếp của album là "Homecoming".[8]

Đánh giá chuyên môn

sửa

Ở bài đánh giá đầu tiên dành cho American Idiot, một cây viết của Sputnikmusic tin rằng những bài hát như "Wake Me Up When September Ends" thể hiện "cuộc tìm kiếm sự minh bạch của người Mỹ" trong thập niên 2000. Họ viết, khi mà bài hát có vẻ tựa như một bản "ballad đại trà" mà Green Day có thể đã làm trong quá khứ, thì có một "nỗi đau lớn và nguyên thủy" mà bài hát khắc họa, giải thích chính xác những gì mà nhiều người "thấy ngớ ngẩn khi nghĩ tới" lúc bấy giờ."[18] Ở một bài tái đánh giá, Jordan Blum của PopMatters miêu tả về "Wake Me Up When September Ends" rằng bài hát có thể bị xem là "đơn giản dễ gây nhầm lẫn, song xuất sắc mà tinh tế" dựa trên những giải thích khác nhau về phần lời ca khúc. Anh viết rằng đây là một trong những "bài hát dũng cảm và bộc trực nhất" mà Armstrong sáng tác nếu xem đây là một ca khúc cá nhân, cũng như "cực kỳ chân thực và cảm động" nếu xem bài hát này nói về Sự kiện 11 tháng 9. Ngoài ra anh còn nhận xét "Wake Me Up When September Ends" là bài hát hay nhất mà Green Day từng sáng tác.[8]

Scott Waldman của Alternative Press và ban biên tập Consequence chọn "Wake Me Up When September Ends" lần lượt ở vị trí thứ tám và 20 trong các lần xếp hạng bài hát của Green Day; Philip Cosores từ Consequence viết rằng bài hát "mang đến nguồn tin xấu làm tổn hại cảm xúc."[19][20] Matthew Leimkuehler của American Songwriter miêu tả ca khúc sở hữu "thông điệp mạnh mẽ và đáng ghi nhớ", "xử lý nỗi đau kéo dài và những khoảnh khắc tuổi mới lớn bất ngờ của cuộc sống."[21] Johnny Luftus của Pitchfork chê sự thay đổi màu sắc của bài hát so với phần còn lại của album, tin rằng bài có tiết tấu chậm và miêu tả tác phẩm là "cái giá của tham vọng" so với phần còn lại của American Idiot.[22] Sau đó anh chê bài hát thêm lần nữa trong một bài đánh giá của Bullet in a Bible, anh miêu tả ca khúc làm cho "chẳng rõ ban đầu Idiot có ý nghĩa là gì."[11]

Biểu diễn thương mại

sửa

Tại Hoa Kỳ, "Wake Me Up When September Ends" giành vị trí thứ sáu trên Billboard Hot 100 và có mặt trên bảng xếp hạng này trong 20 tuần.[10] Ca khúc còn giành vị trí á quân trên Billboard Alternative Airplay, và hạng 12 trên Mainstream Rock. Ở các bảng xếp hạng cuối năm 2005, "Wake Me Up When September Ends" đạt vị trí thứ 46. Ca khúc giành được chứng nhận bạch kim của RIAA vào năm 2008. Tại Canada, bài hát lọt vào CHR/PoP Top 30 ở hạng bốn, Hot AC Top 30 ở hạng ba và Rock Top 30 ở hạng nhất. Ca khúc cũng giành được chứng nhận bạch kim tới bốn lần của Music Canada. Ngoài Bắc Mỹ, "Wake Me Up When September Ends" giành ngôi nhất bảng xếp hạng ở Croatia và Đức. Bài hát thắng giải Kids' Choice cho bài hát yêu thích tại lễ trao giải Kids' Choice 2006, do Nickelodeon tổ chức. Tại cùng lễ trao giải đó, Green Day đã thắng giải Kids' Choice cho nhóm nhạc yêu thích.[23]

Video âm nhạc

sửa

Video âm nhạc (MV) của "Wake Me Up When September Ends" do Samuel Bayer (nhân vật nổi danh trước đó nhờ đạo diễn các MV của NirvanaMetallica) làm đạo diễn.[24] Bayer hình dung MV thành một bộ phim điện ảnh ngắn,[25] anh muốn tạo ra tác phẩm không như các MV khác mà anh cho là dễ đoán.[24] Bayer trình bày ý tưởng về video chủ đề chiến Iraq cho ban nhạc sau khi phỏng vấn những người lính đăng ký chiến đấu, sau khi bị thuyết phục trước một quảng cáo trên truyền hình.[26] Tuy đây không phải ý nghĩa gốc của ca khúc, song Armstrong lại thấy nó rất hợp.[27] Bayer và ê-kíp của mình mất một tháng tuyển chọn diễn viên và tiến hành diễn tập - những điều chưa phổ biến ở các MV lúc bấy giờ.[24] Quá trình ghi hình MV diễn ra tại Los Angeles vào cuối tháng 3 năm 2005.[25]

MV xoay quanh một cặp trai gái đang yêu (do Jamie BellEvan Rachel Wood thể hiện).[24] Cậu bạn trai hứa sẽ không bao giờ bỏ bạn gái, song sau đó họ cãi nhau khi cậu bạn trai đăng ký nhập ngũ tại Thủy quân lục chiến Hoa Kỳ. Cậu bạn trai giải thích hành động của mình là cách để cho cô bạn gái thấy rằng anh yêu cô nhiều đến mức sẵn sàng hi sinh mạng sống để bảo vệ an toàn cho cô. Tuy nhiên, cô bạn gái lại đau khổ vì thấy người bạn trai phá vỡ lời thề không bao giờ bỏ cô. Sau đó MV cho thấy ở chiến trường Iraq, cậu bạn trai bị quân nổi dậy phục kích. Bất chấp sự phản kháng của Thủy quân lục chiến, một vài người trong sự đoàn đã ngã xuống. Số phận của họ—và cậu bạn trai—vẫn chưa rõ ràng. Cảnh này đan xen với những cảnh cô bạn gái rơi lệ tiếc thương tại một cánh đồng yên tĩnh.[28] MV trở thành một trong những video nhạc được đề xuất phát nhiều nhất trên MTV,[29] giành vị trí số một trên Total Request Live.[27] Trong một cuộc thăm dò độc giả của Rolling Stone về những MV xuất sắc nhất năm 2005, tác phẩm xếp thứ hai chỉ sau MV bài "Hollaback Girl" của Gwen Stefani.[30]

Biểu diễn trực tiếp

sửa
 
Green Day biểu diễn tại Manchester vào năm 2024, nơi mở đầu Saviors Tour.[31]

"Wake Me Up When September Ends" có tên trong danh sách tiết mục ở nhiều tour hòa nhạc của Green Day; ở một số tour, ban nhạc đã trình bày toàn bộ American Idiot để quảng bá album.[32][33] Bài hát có tên trong danh sách tiết mục của Hella Mega Tour - tour hòa nhạc có sự tham gia của Green Day, Fall Out BoyWeezer bắt đầu vào năm 2021.[34] Sau đó ca khúc được đưa vào danh sách tiết mục của Saviors Tour cùng các bài hát khác trích từ American Idiot.[31][35]

Di sản

sửa

"Wake Me Up When September Ends" gắn liền với dư âm của Bão Katrina - cơn bão đổ bộ vào Duyên hải Vịnh Mexico của Hoa Kỳ ba ngày trước khi bắt đầu tháng 9 năm 2005.[29] Sự liên hệ ấy bắt đầu sau khi một blogger khởi tạo video ghép bài hát với các bản thu đưa tin về thảm họa trên truyền hình, gây nên hiệu ứng lan truyền.[7][29] Sau đó, Green Day trình bày ca khúc tại ReAct Now: Music & Relief - buổi hòa nhạc từ thiện nhằm tưởng nhớ các nạn nhân của cơn bão. Một bản thu bài hát trực tiếp (cũng để dành tặng các nạn nhân của cơn bão) được trình bày tại Sân vận động Gillette và phát hành vào ngày 3 tháng 9.[7] Nhóm thể hiện ca khúc một lần nữa tại show trước trận đấu Bóng bầu dục vào đêm Thứ Hai (Monday Night Football game) giữa hai đội New Orleans Saints và Atlanta Falcons tại New Orleans Superdome - trận đấu đầu tiên được tổ chức tại sân vận động sau bão.[7] Tháng 4 năm 2020, Armstrong trình diễn ca khúc tại One World: Together At Home - buổi hòa nhạc từ thiện phát trực tuyến dành cho các nỗ lực cứu trợ COVID-19.[36]

"Wake Me Up When September Ends" cho thấy sự gia tăng đột biến về độ thịnh hành trên các nền tảng phát nhạc trực tuyến ở những ngày đầu và ngày cuối của tháng 9, cũng như ngày đầu tháng 10.[37][38] Theo Loudwire, lượng người xem MV trên YouTube tăng 135% vào ngày cuối tháng 9 năm 2019 so với lượng người xem trung bình các ngày còn lại của năm đó.[39] Nhờ thế mà ban nhạc thấy được lợi nhuận tăng trong những ngày hôm đấy.[38] Sự tái thịnh hành của nhạc phẩm vào khoảng cuối tháng cũng làm cho nhiều bài đăng trên mạng xã hội và meme internet ra đời, đa số đều yêu cầu đánh thức Armstrong. Những meme này bị chỉ trích vì cho thấy sự vô cảm trước nội dung của ca khúc;[7] nhằm đáp lại những meme đó, trong một lần phỏng vấn với Vulture vào năm 2016, Armstrong trả lời đùa rằng anh sẽ sáng tác bài hát mới có tựa đề "Shut The Fuck Up When October Comes."[40][41] Sau đó anh liên hệ đến các meme trong một video quảng bá bài hát "The American Dream Is Killing Me" vào ngày 1 tháng 10 năm 2023.[42]

Danh sách ca khúc

sửa
UK CD1[43]
STTNhan đềThời lượng
1."Wake Me Up When September Ends"4:45
2."Give Me Novacaine" (trình bày trực tiếp tại VH1 Storytellers, Culver City, California vào ngày 15 tháng 2 năm 2005)3:38
UK CD2[44]
STTNhan đềThời lượng
1."Wake Me Up When September Ends"4:45
2."Homecoming" (trình bày trực tiếp tại VH1 Storytellers, Culver City, California vào ngày 15 tháng 2 năm 2005)9:24
3."Hitchin' a Ride"2:52
Mặt A
STTNhan đềThời lượng
1."Wake Me Up When September Ends"4:45
Side B
STTNhan đềThời lượng
1."Give Me Novacaine" (trình bày trực tiếp tại VH1 Storytellers, Culver City, California vào ngày 15 tháng 2 năm 2005)3:38
European CD single[45]
STTNhan đềThời lượng
1."Wake Me Up When September Ends"4:45
2."Give Me Novacaine" (trình bày trực tiếp tại VH1 Storytellers, Culver City, California vào ngày 15 tháng 2 năm 2005)3:38
Australian CD single[46]
STTNhan đềThời lượng
1."Wake Me Up When September Ends"4:45
2."Give Me Novacaine" (trình bày trực tiếp tại VH1 Storytellers, Culver City, California vào ngày 15 tháng 2 năm 2005)3:38
3."Homecoming" (trình bày trực tiếp tại VH1 Storytellers, Culver City, California vào ngày 15 tháng 2 năm 2005)9:24
Live (độc quyền trên iTunes)[47]
STTNhan đềThời lượng
1."Wake Me Up When September Ends" (trình bày trực tiếp tại Foxboro, Massachusetts vào ngày 3 tháng 9 năm 2005)5:40

Đội ngũ sản xuất

sửa

Danh sách nhân sự được lấy từ các dòng ghi chú lót của đĩa UK CD1.[43]

Xếp hạng

sửa

Chứng nhận

sửa
Chứng nhận và doanh số của "Wake Me Up When September Ends"
Quốc gia Chứng nhận Số đơn vị/doanh số chứng nhận
Canada (Music Canada)[99] 4× Bạch kim 320.000double-dagger 
Đan Mạch (IFPI Đan Mạch)[100] Vàng 4.000^
Ý (FIMI)[101] Bạch kim 50.000double-dagger 
Tây Ban Nha (PROMUSICAE)[102] Vàng 30.000double-dagger 
Anh Quốc (BPI)[103] Bạch kim 600.000double-dagger 
Hoa Kỳ (RIAA)[104] Bạch kim 1.000.000*

* Chứng nhận dựa theo doanh số tiêu thụ.
^ Chứng nhận dựa theo doanh số nhập hàng.
double-dagger  Chứng nhận dựa theo doanh số tiêu thụ+phát trực tuyến.

Lịch sử phát hành

sửa
Ngày phát hành và định dạng của "Wake Me Up When September Ends"
Vùng lãnh thổ Ngày Định dạng Hãng thu âm C.thích
Hoa Kỳ 13 tháng 6 năm 2005 Alternative radio Reprise [9]
Vương quốc Liên hiệp Anh CD [105]
Úc 11 tháng 7 năm 2005 [106]
Hoa Kỳ [107]
29 tháng 8 năm 2005 [108]

Ghi chú

sửa
  1. ^ Tạm dịch: "Tựa như ba tôi sống một đời rồi tạ thế / Bảy năm trôi qua thật mau,"
  2. ^ Tạm dịch: "20 năm trôi qua thật mau,"

Chú thích

sửa
  1. ^ Robinson, Joe (4 tháng 1 năm 2013). “Green Day, 'American Idiot' – Career-saving albums”. Diffuser. Lưu trữ bản gốc ngày 16 tháng 3 năm 2017.
  2. ^ Stegall, Tim. “15 best punk albums of 2004, from Green Day to My Chemical Romance”. Alternative Press. Lưu trữ bản gốc ngày 22 tháng 3 năm 2023. Truy cập ngày 3 tháng 8 năm 2024.
  3. ^ Geraghty, Hollie (23 tháng 1 năm 2024). “Green Day on the "bummer" of their pre-'American Idiot' album 'Cigarettes & Valentines' being stolen”. NME (bằng tiếng Anh). Lưu trữ bản gốc ngày 24 tháng 1 năm 2024. Truy cập ngày 8 tháng 8 năm 2024.
  4. ^ Hendrickson, Matt (24 tháng 2 năm 2005). “Green Day and the Palace of Wisdom”. Rolling Stone. New York City (968). ISSN 0035-791X. Bản gốc lưu trữ ngày 8 tháng 6 năm 2015. Truy cập ngày 3 tháng 6 năm 2015.
  5. ^ a b c “Rage and Love: 15 years of Green Day's American Idiot”. Mixdown. Lưu trữ bản gốc ngày 7 tháng 8 năm 2024. Truy cập ngày 7 tháng 8 năm 2024.
  6. ^ a b Richardson, Jake (28 tháng 4 năm 2023). “The 12 Best Emo Power Ballads”. Loudwire (bằng tiếng Anh). Lưu trữ bản gốc ngày 22 tháng 6 năm 2023. Truy cập ngày 7 tháng 8 năm 2024.
  7. ^ a b c d e f g h Hopper, Alex (7 tháng 6 năm 2022). “The Meaning Behind "Wake Me Up When September Ends" by Green Day”. American Songwriter. Lưu trữ bản gốc ngày 8 tháng 8 năm 2024. Truy cập ngày 4 tháng 8 năm 2024.
  8. ^ a b c d e f g h “Between the Grooves: Green Day – 'American Idiot'. PopMatters (bằng tiếng Anh). 29 tháng 1 năm 2021. tr. 11. Lưu trữ bản gốc ngày 16 tháng 4 năm 2024. Truy cập ngày 4 tháng 8 năm 2024.
  9. ^ a b “Going for Adds” (PDF). Radio & Records (1610): 19. 10 tháng 6 năm 2005. Bản gốc (PDF) lưu trữ ngày 9 tháng 3 năm 2021. Truy cập ngày 22 tháng 5 năm 2021.
  10. ^ a b Childers, Chad (21 tháng 9 năm 2023). “19 Years Ago - Green Day Release 'American Idiot'. Loudwire (bằng tiếng Anh). Lưu trữ bản gốc ngày 24 tháng 5 năm 2024. Truy cập ngày 8 tháng 8 năm 2024.
  11. ^ a b Loftus, Johnny. “Green Day: Bullet in a Bible”. Pitchfork (bằng tiếng Anh). Lưu trữ bản gốc ngày 21 tháng 1 năm 2024. Truy cập ngày 8 tháng 8 năm 2024.
  12. ^ Greene, Morgan (15 tháng 6 năm 2018). 'American Idiot' cast performs 'Wake Me Up When September Ends'. Chicago Tribune. Truy cập ngày 8 tháng 8 năm 2024.
  13. ^ Gans, Andrew; Jones, Kenneth (13 tháng 4 năm 2010). “Reprise Records to Release American Idiot Original Cast Recording”. Playbill. Lưu trữ bản gốc ngày 6 tháng 3 năm 2021. Truy cập ngày 8 tháng 8 năm 2024. ...the musical and the cast recording include every song from "American Idiot"...
  14. ^ Monroe, Jazz (12 tháng 10 năm 2017). “Green Day Announce Greatest Hits: God's Favorite Band”. Pitchfork (bằng tiếng Anh). Lưu trữ bản gốc ngày 6 tháng 8 năm 2022. Truy cập ngày 8 tháng 8 năm 2024.
  15. ^ Skinner, Tom (9 tháng 8 năm 2024). “Green Day announce 'American Idiot' 20th anniversary reissue – including new documentary and unreleased songs”. NME. Truy cập ngày 9 tháng 8 năm 2024.
  16. ^ a b Sheffield, Rob (30 tháng 9 năm 2004). “Green Day: American Idiot. Rolling Stone. New York City (958). ISSN 0035-791X. Bản gốc lưu trữ ngày 3 tháng 3 năm 2015. Truy cập ngày 3 tháng 6 năm 2015.
  17. ^ JR (21 tháng 9 năm 2004). “American Idiot”. IGN (bằng tiếng Anh). Truy cập ngày 9 tháng 8 năm 2024.
  18. ^ “Review: Green Day - American Idiot”. Sputnikmusic. Truy cập ngày 4 tháng 8 năm 2024.
  19. ^ Waldman, Scott (16 tháng 3 năm 2020). “Green Day song by song ranking of band's studio album tracks”. Alternative Press. Truy cập ngày 17 tháng 8 năm 2024.
  20. ^ “Green Day's Top Songs: Their 20 Best Tracks Of All Time”. Consequence (bằng tiếng Anh). 2 tháng 11 năm 2023. Lưu trữ bản gốc ngày 4 tháng 8 năm 2024. Truy cập ngày 4 tháng 8 năm 2024.
  21. ^ Leimkuehler, Matthew (21 tháng 11 năm 2023). “All the Songs on Green Day's 'American Idiot,' Ranked”. American Songwriter (bằng tiếng Anh). Lưu trữ bản gốc ngày 31 tháng 7 năm 2024. Truy cập ngày 4 tháng 8 năm 2024.
  22. ^ Loftus, Johnny (24 tháng 9 năm 2004). “Green Day: American Idiot: Pitchfork Review”. Pitchfork. Bản gốc lưu trữ ngày 27 tháng 8 năm 2005. Truy cập ngày 4 tháng 8 năm 2024.
  23. ^ Rogers, John (4 tháng 4 năm 2006). “Cheers and slime at Kids Choice Awards”. The Berkshire Eagle. tr. 15.
  24. ^ a b c d James Montgomery (9 tháng 8 năm 2005). 'Teen Spirit' Director Calls Green Day Clip His Career Highlight”. MTV News. New York City. Bản gốc lưu trữ ngày 10 tháng 6 năm 2015. Truy cập ngày 9 tháng 6 năm 2015.
  25. ^ a b Montgomery, James (19 tháng 4 năm 2005). “It's A Dark Day For Green Day In Somber 'September' Video”. MTV News. Bản gốc lưu trữ ngày 10 tháng 6 năm 2015. Truy cập ngày 9 tháng 6 năm 2015.
  26. ^ Colapinto, John (17 tháng 11 năm 2005). “Green Day: Working Class Heroes”. Rolling Stone. New York City (987): 50–56. ISSN 0035-791X. Bản gốc lưu trữ ngày 10 tháng 6 năm 2015. Truy cập ngày 3 tháng 6 năm 2015.
  27. ^ a b Moss, Corey (31 tháng 8 năm 2005). “Think Green Day's 'September' Clip Is Epic? Just Wait For 'Jesus Of Suburbia'. MTV News. New York City. Bản gốc lưu trữ ngày 10 tháng 6 năm 2015. Truy cập ngày 9 tháng 6 năm 2015.
  28. ^ Green Day (13 tháng 6 năm 2005). Wake Me Up When September Ends (Video). Lưu trữ bản gốc ngày 20 tháng 6 năm 2011. Truy cập ngày 4 tháng 8 năm 2024.
  29. ^ a b c Boxer, Sarah (24 tháng 9 năm 2005). “Art of the Internet: A Protest Song, Reloaded”. The New York Times. New York City. Lưu trữ bản gốc ngày 29 tháng 5 năm 2015. Truy cập ngày 31 tháng 5 năm 2015.
  30. ^ Greene, Andy (11 tháng 1 năm 2006). “The 2005 Readers' Poll”. Rolling Stone. New York City. ISSN 0035-791X. Lưu trữ bản gốc ngày 10 tháng 6 năm 2015. Truy cập ngày 3 tháng 6 năm 2015.
  31. ^ a b Shah, Rishi (24 tháng 6 năm 2024). “Green Day live in Manchester: an emphatic celebration of two timeless albums”. NME (bằng tiếng Anh). Lưu trữ bản gốc ngày 4 tháng 8 năm 2024. Truy cập ngày 4 tháng 8 năm 2024.
  32. ^ Blashill, Pat (28 tháng 10 năm 2004). “Live Review: Green Day at Irving Plaza, New York”. Rolling Stone (bằng tiếng Anh). Lưu trữ bản gốc ngày 4 tháng 8 năm 2024. Truy cập ngày 4 tháng 8 năm 2024.
  33. ^ Punknews.org (30 tháng 11 năm 2004). “Green Day / New Found Glory / Sugarcult - live in Rochester”. Punknews (bằng tiếng Anh). Lưu trữ bản gốc ngày 4 tháng 8 năm 2024. Truy cập ngày 4 tháng 8 năm 2024.
  34. ^ Greene, Andy (25 tháng 7 năm 2021). “Green Day, Weezer, Fall Out Boy Launch 'Hella Mega' With Epic, Emotional Dallas Concert”. Rolling Stone (bằng tiếng Anh). Lưu trữ bản gốc ngày 28 tháng 7 năm 2024. Truy cập ngày 4 tháng 8 năm 2024.
  35. ^ “Green Day: Here's the setlist from the first night of The Saviors Tour”. Kerrang! (bằng tiếng Anh). 31 tháng 5 năm 2024. Lưu trữ bản gốc ngày 28 tháng 7 năm 2024. Truy cập ngày 4 tháng 8 năm 2024.
  36. ^ Daly, Rhian (19 tháng 4 năm 2020). “Green Day's Billie Joe Armstrong plays poignant version of 'Wake Me Up When September Ends' on One World: Together At Home special”. NME (bằng tiếng Anh). Lưu trữ bản gốc ngày 13 tháng 6 năm 2020. Truy cập ngày 4 tháng 8 năm 2024.
  37. ^ Aniftos, Rania (4 tháng 10 năm 2019). “Green Day's 'Wake Me Up When September Ends' Gets Annual Spike in YouTube Views Because, Well, September Ended”. Billboard (bằng tiếng Anh). Lưu trữ bản gốc ngày 3 tháng 8 năm 2024. Truy cập ngày 4 tháng 8 năm 2024.
  38. ^ a b “Apparently Green Day Make Extra Money When September Ends Every Year”. Kerrang! (bằng tiếng Anh). 8 tháng 10 năm 2018. Lưu trữ bản gốc ngày 4 tháng 8 năm 2024. Truy cập ngày 4 tháng 8 năm 2024.
  39. ^ DiVita, Joe (2 tháng 10 năm 2019). “Green Day See Huge YouTube View Spike When September Ends”. Loudwire (bằng tiếng Anh). Lưu trữ bản gốc ngày 18 tháng 5 năm 2024. Truy cập ngày 4 tháng 8 năm 2024.
  40. ^ Shutler, Ali (2 tháng 10 năm 2021). “Green Day fans are over the 'Wake Me Up When September Ends' joke”. NME (bằng tiếng Anh). Lưu trữ bản gốc ngày 4 tháng 8 năm 2024. Truy cập ngày 4 tháng 8 năm 2024.
  41. ^ Murphy, Patricia (13 tháng 11 năm 2016). 'Shut the F*** Up When October Begins'- Green Day's Billie Joe Armstrong on the trolls who mock his most famous song”. Irish Independent. Lưu trữ bản gốc ngày 14 tháng 4 năm 2019. Truy cập ngày 30 tháng 7 năm 2019.
  42. ^ “Green Day are teasing something with new video and website”. Kerrang! (bằng tiếng Anh). 1 tháng 10 năm 2023. Lưu trữ bản gốc ngày 29 tháng 7 năm 2024. Truy cập ngày 4 tháng 8 năm 2024.
  43. ^ a b Green Day (2005). Wake Me Up When September Ends (UK CD1 liner notes). Reprise Records. W674CD1, 5439 16013 2.
  44. ^ Green Day (2005). Wake Me Up When September Ends (UK CD2 liner notes). Reprise Records. W674CD2, 9362 42810 2.
  45. ^ Green Day (2005). Wake Me Up When September Ends (European CD single liner notes). Reprise Records. 5439 16012-2.
  46. ^ Green Day (2005). Wake Me Up When September Ends (Australian CD single liner notes). Reprise Records. 9362 42816 2.
  47. ^ “Wake Me Up When September Ends (Live At Foxboro, MA 9/3/05) – Single”. Apple Music. Lưu trữ bản gốc ngày 27 tháng 4 năm 2022. Truy cập ngày 5 tháng 12 năm 2020.
  48. ^ "Australian-charts.com – Green Day – Wake Me Up When September Ends" (bằng tiếng Anh). ARIA Top 50 Singles. Truy cập 9 tháng 6 năm 2015.
  49. ^ "Austriancharts.at – Green Day – Wake Me Up When September Ends" (bằng tiếng Đức). Ö3 Austria Top 40. Truy cập 9 tháng 6 năm 2015.
  50. ^ "Ultratop.be – Green Day – Wake Me Up When September Ends" (bằng tiếng Hà Lan). Ultratip. Truy cập 9 tháng 6 năm 2015.
  51. ^ "Ultratop.be – Green Day – Wake Me Up When September Ends" (bằng tiếng Pháp). Ultratip. Truy cập 9 tháng 6 năm 2015.
  52. ^ “R&R Canada CHR/Pop Top 30” (PDF). Radio & Records (1630): 29. 28 tháng 10 năm 2005. Lưu trữ (PDF) bản gốc ngày 27 tháng 1 năm 2021. Truy cập ngày 16 tháng 10 năm 2020.
  53. ^ “R&R Canada Hot AC Top 30” (PDF). Radio & Records (1627): 52. 7 tháng 10 năm 2005. Lưu trữ (PDF) bản gốc ngày 19 tháng 5 năm 2024. Truy cập ngày 30 tháng 4 năm 2024.
  54. ^ “R&R Canada Rock Top 30” (PDF). Radio & Records (1622): 54. 2 tháng 9 năm 2005. Lưu trữ (PDF) bản gốc ngày 18 tháng 10 năm 2020. Truy cập ngày 11 tháng 10 năm 2019.
  55. ^ Green Day — Wake Me Up When September Ends (bằng tiếng Anh). Tophit. Truy cập 30 tháng 10 năm 2021.
  56. ^ “Top Lista Hrvatskog Radija”. Croatian Radiotelevision. Bản gốc lưu trữ ngày 28 tháng 8 năm 2005. Truy cập ngày 14 tháng 3 năm 2021.
  57. ^ "ČNS IFPI" (bằng tiếng Séc). Hitparáda – Radio Top 100 Oficiální. IFPI Cộng hòa Séc. Ghi chú: Chọn 39. týden 2005. Truy cập 9 tháng 6 năm 2015.
  58. ^ "Musicline.de – Green Day Single-Chartverfolgung" (bằng tiếng Đức). Media Control Charts. PhonoNet GmbH. Truy cập 9 tháng 6 năm 2015.
  59. ^ “Nielsen Music Control Airplay – Germany Top 5”. Nielsen Music Control on behalf of BVMI. Bản gốc lưu trữ ngày 28 tháng 8 năm 2005. Truy cập ngày 17 tháng 2 năm 2023.
  60. ^ “IFPI archive”. Bản gốc lưu trữ ngày 17 tháng 12 năm 2005. Truy cập ngày 17 tháng 12 năm 2005.
  61. ^ "Archívum – Slágerlisták – MAHASZ" (bằng tiếng Hungary). Rádiós Top 40 játszási lista. Magyar Hanglemezkiadók Szövetsége.
  62. ^ "The Irish Charts – Search Results – Wake Me Up When September Ends" (bằng tiếng Anh). Irish Singles Chart. Truy cập 29 tháng 1 năm 2020.
  63. ^ "Italiancharts.com – Green Day – Wake Me Up When September Ends" (bằng tiếng Anh). Top Digital Download. Truy cập 9 tháng 6 năm 2015.
  64. ^ "Nederlandse Top 40 – week 34, 2005" (bằng tiếng Hà Lan). Dutch Top 40 Truy cập 19 tháng 11 năm 2018.
  65. ^ "Dutchcharts.nl – Green Day – Wake Me Up When September Ends" (bằng tiếng Hà Lan). Single Top 100. Truy cập 19 tháng 11 năm 2018.
  66. ^ "Charts.nz – Green Day – Wake Me Up When September Ends" (bằng tiếng Anh). Top 40 Singles. Truy cập 9 tháng 6 năm 2015.
  67. ^ “Top Radio Hits Russia Weekly Chart: Feb 9, 2006”. TopHit. Lưu trữ bản gốc ngày 25 tháng 4 năm 2024. Truy cập ngày 25 tháng 4 năm 2024.
  68. ^ "Official Scottish Singles Sales Chart Top 100" (bằng tiếng Anh). Official Charts Company. Truy cập 19 tháng 11 năm 2018.
  69. ^ "Swedishcharts.com – Green Day – Wake Me Up When September Ends" (bằng tiếng Anh). Singles Top 100. Truy cập 9 tháng 6 năm 2015.
  70. ^ "Swisscharts.com – Green Day – Wake Me Up When September Ends" (bằng tiếng Thụy Sĩ). Swiss Singles Chart. Truy cập 19 tháng 11 năm 2018.
  71. ^ "Official Singles Chart Top 100" (bằng tiếng Anh). Official Charts Company. Truy cập 9 tháng 6 năm 2015.
  72. ^ "Official Rock & Metal Singles Chart Top 40" (bằng tiếng Anh). Official Charts Company. Truy cập 6 tháng 7 năm 2023.
  73. ^ "Green Day Chart History (Hot 100)". Billboard (bằng tiếng Anh). Truy cập 9 tháng 6 năm 2015.
  74. ^ "Green Day Chart History (Adult Alternative Songs)". Billboard (bằng tiếng Anh). Truy cập 9 tháng 6 năm 2015.
  75. ^ "Green Day Chart History (Adult Contemporary)". Billboard (bằng tiếng Anh). Truy cập 9 tháng 6 năm 2015.
  76. ^ "Green Day Chart History (Adult Pop Songs)". Billboard (bằng tiếng Anh). Truy cập 9 tháng 6 năm 2015.
  77. ^ "Green Day Chart History (Alternative Songs)". Billboard (bằng tiếng Anh). Truy cập 9 tháng 6 năm 2015.
  78. ^ "Green Day Chart History (Mainstream Rock)". Billboard (bằng tiếng Anh). Truy cập 9 tháng 6 năm 2015.
  79. ^ "Green Day Chart History (Pop Songs)". Billboard (bằng tiếng Anh). Truy cập 9 tháng 6 năm 2015.
  80. ^ “2011-03-19 Top 40 Rock & Metal Singles Archive”. Official Charts Company. 19 tháng 3 năm 2011. Lưu trữ bản gốc ngày 13 tháng 2 năm 2016. Truy cập ngày 8 tháng 1 năm 2012.
  81. ^ “Green Day Chart History (Alternative Digital Song Sales)”. Billboard. Lưu trữ bản gốc ngày 23 tháng 8 năm 2023. Truy cập ngày 4 tháng 10 năm 2023.
  82. ^ “Green Day Chart History (Rock Digital Song Sales)”. Billboard. Lưu trữ bản gốc ngày 16 tháng 10 năm 2023. Truy cập ngày 4 tháng 10 năm 2023.
  83. ^ “Billboard Japan Hot Overseas [2023/10/09 公開]”. Billboard Japan (bằng tiếng Nhật). Lưu trữ bản gốc ngày 4 tháng 10 năm 2023. Truy cập ngày 4 tháng 10 năm 2023.
  84. ^ “ARIA Top 100 Singles for 2005”. ARIA. Lưu trữ bản gốc ngày 24 tháng 7 năm 2017. Truy cập ngày 5 tháng 12 năm 2020.
  85. ^ “Jahreshitparade Singles 2005” (bằng tiếng Đức). Lưu trữ bản gốc ngày 24 tháng 1 năm 2016. Truy cập ngày 19 tháng 11 năm 2018.
  86. ^ “Brazilian Top 100 Year-End 2005”. Crowley Broadcast Analysis. 3 tháng 4 năm 2018. Lưu trữ bản gốc ngày 22 tháng 9 năm 2023. Truy cập ngày 30 tháng 1 năm 2022.
  87. ^ “Rádiós Top 100 – hallgatottsági adatok alapján – 2005” (bằng tiếng Hungary). Mahasz. Lưu trữ bản gốc ngày 3 tháng 6 năm 2020. Truy cập ngày 2 tháng 4 năm 2020.
  88. ^ “End of Year Singles Chart Top 100 – 2005”. Official Charts Company. Lưu trữ bản gốc ngày 26 tháng 9 năm 2015. Truy cập ngày 19 tháng 11 năm 2018.
  89. ^ “The 2005 Year in Music & Touring” (PDF). Billboard. 117 (52): YE-39. 24 tháng 12 năm 2005.
  90. ^ “2005 The Year in Charts: Top Adult Top 40 Songs”. Billboard Radio Monitor. 13 (50): 31. 16 tháng 12 năm 2005.
  91. ^ “2005 The Year in Charts: Top Mainstream Top 40 Songs”. Billboard Radio Monitor. 13 (50): 26. 16 tháng 12 năm 2005.
  92. ^ “2005 The Year in Music & Touring: Hot Modern Rock Songs”. Billboard. 117 (52): YE-70. 24 tháng 12 năm 2005.
  93. ^ “2005 The Year in Charts: Top Triple-A Songs”. Billboard Radio Monitor. 13 (50): 57. 16 tháng 12 năm 2005.
  94. ^ “Brazilian Top 100 Year-End 2006”. Crowley Broadcast Analysis. 3 tháng 4 năm 2018. Lưu trữ bản gốc ngày 16 tháng 4 năm 2024. Truy cập ngày 30 tháng 1 năm 2022.
  95. ^ “Лучшие песни и музыка за 2006 год” (bằng tiếng Nga). TopHit. Bản gốc lưu trữ ngày 30 tháng 10 năm 2021. Truy cập ngày 30 tháng 10 năm 2021.
  96. ^ “Rádiós Top 100 – hallgatottsági adatok alapján – 2006” (bằng tiếng Hungary). Mahasz. Lưu trữ bản gốc ngày 22 tháng 4 năm 2021. Truy cập ngày 7 tháng 6 năm 2020.
  97. ^ “Top Radio Hits Russia Annual Chart: 2006”. TopHit. Lưu trữ bản gốc ngày 25 tháng 4 năm 2024. Truy cập ngày 25 tháng 4 năm 2024.
  98. ^ “Adult Pop Songs – Year-End 2006”. Billboard. Lưu trữ bản gốc ngày 17 tháng 4 năm 2019. Truy cập ngày 22 tháng 9 năm 2019.
  99. ^ “Chứng nhận đĩa đơn Canada – Green Day – Wake Me Up When September Ends” (bằng tiếng Anh). Music Canada. Truy cập ngày 18 tháng 10 năm 2023.
  100. ^ “Guld og platin november/december/januar” (bằng tiếng Đan Mạch). IFPI Denmark. Bản gốc lưu trữ ngày 30 tháng 1 năm 2015.
  101. ^ “Chứng nhận đĩa đơn Ý – Green Day – Wake Me Up When September Ends” (bằng tiếng Ý). Federazione Industria Musicale Italiana. Truy cập ngày 19 tháng 2 năm 2018.
  102. ^ “Chứng nhận đĩa đơn Tây Ban Nha – Green Day – Wake Me Up When September Ends”. El portal de Música. Productores de Música de España. Truy cập ngày 22 tháng 2 năm 2024.
  103. ^ “Chứng nhận đĩa đơn Anh Quốc – Green Day – Wake Me Up When September Ends” (bằng tiếng Anh). British Phonographic Industry. Truy cập ngày 1 tháng 3 năm 2019.
  104. ^ “Chứng nhận đĩa đơn Hoa Kỳ – Green Day – Wake Me Up When September Ends” (bằng tiếng Anh). Hiệp hội Công nghiệp Ghi âm Hoa Kỳ. Truy cập ngày 10 tháng 1 năm 2015.
  105. ^ “New Releases: Singles”. Music Week: 35. 11 tháng 6 năm 2005.
  106. ^ “The ARIA Report: New Releases Singles – Week Commencing 11/07/2005” (PDF). ARIA. 11 tháng 7 năm 2005. tr. 28. Bản gốc (PDF) lưu trữ ngày 19 tháng 7 năm 2005. Truy cập ngày 22 tháng 5 năm 2021.
  107. ^ “Going for Adds” (PDF). Radio & Records (1614): 20. 8 tháng 7 năm 2005. Lưu trữ (PDF) bản gốc ngày 9 tháng 3 năm 2021. Truy cập ngày 22 tháng 5 năm 2021.
  108. ^ “Going for Adds” (PDF). Radio & Records (1621): 20. 26 tháng 8 năm 2005. Lưu trữ (PDF) bản gốc ngày 9 tháng 3 năm 2021. Truy cập ngày 22 tháng 5 năm 2021.