[go: nahoru, domu]

Bước tới nội dung

U-240 (tàu ngầm Đức)

Bách khoa toàn thư mở Wikipedia
Tàu ngầm U-boat Type VIIC
Lịch sử
Đức Quốc Xã
Tên gọi U-240
Đặt hàng 20 tháng 1, 1941
Xưởng đóng tàu Germaniawerft, Kiel
Kinh phí 4.439.000 Reichsmark
Số hiệu xưởng đóng tàu 670
Đặt lườn 14 tháng 5, 1942
Hạ thủy 18 tháng 2, 1943
Nhập biên chế 3 tháng 3, 1943
Tình trạng Mất tích tại khu vực biển Na Uy từ ngày 15 tháng 5, 1944[1]
Đặc điểm khái quát
Lớp tàu Tàu ngầm Type VIIC
Trọng tải choán nước
Chiều dài
  • 67,10 m (220 ft 2 in) (chung) [2]
  • 50,50 m (165 ft 8 in) (lườn áp lực) [2]
Sườn ngang
  • 6,20 m (20 ft 4 in) (chung) [2]
  • 4,70 m (15 ft 5 in) (lườn áp lực) [2]
Chiều cao 9,60 m (31 ft 6 in) [2]
Mớn nước 4,74 m (15 ft 7 in) [2]
Công suất lắp đặt
  • 2.800–3.200 PS (2.100–2.400 kW; 2.800–3.200 shp) (diesel) [2]
  • 750 PS (550 kW; 740 shp) (điện) [2]
Động cơ đẩy
Tốc độ
Tầm xa
  • 8.500 hải lý (15.700 km; 9.800 mi) ở tốc độ 10 hải lý trên giờ (19 km/h; 12 mph) (nổi) [2]
  • 80 hải lý (150 km; 92 mi) ở tốc độ 4 hải lý trên giờ (7,4 km/h; 4,6 mph) (lặn) [2]
Độ sâu thử nghiệm
  • 230 m (750 ft) [2]
  • 250–295 m (820–968 ft) (độ sâu ép vỡ tính toán)
Thủy thủ đoàn tối đa 4 sĩ quan, 40-56 thủy thủ
Hệ thống cảm biến và xử lý Gruppenhorchgerät
Vũ khí
Thành tích phục vụ[1][3]
Một phần của:
Mã nhận diện: M 50 810
Chỉ huy:
  • Trung úy Günther Link
  • 3 tháng 3, 1943 – 15 tháng 5, 1944
Chiến dịch:
  • 1 chuyến tuần tra:
  • 13 – 15 tháng 5, 1944
Chiến thắng: Không

U-240 là một tàu ngầm tấn công Lớp Type VII thuộc phân lớp Type VIIC được Hải quân Đức Quốc Xã chế tạo trong Chiến tranh Thế giới thứ hai. Nhập biên chế năm 1943, nó chỉ thực hiện được một chuyến tuần tra duy nhất trong chiến tranh tại khu vực biển Na Uy, không đánh chìm được mục tiêu nào, và mất tích ngay trong chuyến đi này từ ngày 15 tháng 5, 1944.

Thiết kế và chế tạo

[sửa | sửa mã nguồn]

Thiết kế

[sửa | sửa mã nguồn]
Sơ đồ các mặt cắt một tàu ngầm Type VIIC

Phân lớp VIIC của Tàu ngầm Type VII là một phiên bản VIIB được kéo dài thêm. Chúng có trọng lượng choán nước 769 t (757 tấn Anh) khi nổi và 871 t (857 tấn Anh) khi lặn).[4] Con tàu có chiều dài chung 67,10 m (220 ft 2 in), lớp vỏ trong chịu áp lực dài 50,50 m (165 ft 8 in), mạn tàu rộng 6,20 m (20 ft 4 in), chiều cao 9,60 m (31 ft 6 in) và mớn nước 4,74 m (15 ft 7 in).[4]

Chúng trang bị hai động cơ diesel Germaniawerft F46 siêu tăng áp 6-xy lanh 4 thì, tổng công suất 2.800–3.200 PS (2.100–2.400 kW; 2.800–3.200 bhp), dẫn động hai trục chân vịt đường kính 1,23 m (4,0 ft), cho phép đạt tốc độ tối đa 17,7 kn (32,8 km/h), và tầm hoạt động tối đa 8.500 nmi (15.700 km) khi đi tốc độ đường trường 10 kn (19 km/h). Khi đi ngầm dưới nước, chúng sử dụng hai động cơ/máy phát điện AEG GU 460/8–27 tổng công suất 750 PS (550 kW; 740 shp). Tốc độ tối đa khi lặn là 7,6 kn (14,1 km/h), và tầm hoạt động 80 nmi (150 km) ở tốc độ 4 kn (7,4 km/h). Con tàu có khả năng lặn sâu đến 230 m (750 ft).[4]

Vũ khí trang bị có năm ống phóng ngư lôi 53,3 cm (21 in), bao gồm bốn ống trước mũi và một ống phía đuôi, và mang theo tổng cộng 14 quả ngư lôi, hoặc tối đa 22 quả thủy lôi TMA, hoặc 33 quả TMB. Tàu ngầm Type VIIC bố trí một hải pháo 8,8 cm SK C/35 cùng một pháo phòng không 2 cm (0,79 in) trên boong tàu. Thủy thủ đoàn bao gồm 4 sĩ quan và 40-56 thủy thủ.[4]

Chế tạo

[sửa | sửa mã nguồn]

U-240 được đặt hàng vào ngày 20 tháng 1, 1941,[1] và được đặt lườn tại xưởng tàu của hãng Friedrich Krupp Germaniawerft tại Kiel vào ngày 14 tháng 5, 1942.[1] Nó được hạ thủy vào ngày 18 tháng 2, 1943,[1] và nhập biên chế cùng Hải quân Đức Quốc Xã vào ngày 3 tháng 3, 1943[1] dưới quyền chỉ huy của Hạm trưởng, Trung úy Hải quân Günther Link.[1]

Lịch sử hoạt động

[sửa | sửa mã nguồn]

Sau khi hoàn thành việc chạy thử máy và huấn luyện trong thành phần Chi hạm đội U-boat 5, U-240 được điều sang phục vụ cùng Chi hạm đội U-boat 9 từ ngày 1 tháng 2, 1944.[1] Sau khi chuyển căn cứ hoạt động từ Kiel sang cảng Kristiansand, Na Uy vào cuối tháng 3,[1] nó khởi hành từ đây vào ngày 13 tháng 5 cho chuyến tuần tra duy nhất trong chiến tranh,[3] dự định sẽ cùng ba chiếc U-boat khác tấn công lực lượng Đồng Minh được phát hiện về phía Đông Bắc Trondheim vào ngày 15 tháng 5.[1]U-240 được cho là đã mất tích tại Bắc Hải về phía Tây Na Uy từ ngày 15 tháng 5, 1944 mà không rõ nguyên nhân.[1]

Từng có giả thuyết cho rằng một máy bay ném bom Short Sunderland thuộc Liên đội 330 Không quân Hoàng gia Anh đã thả mìn sâu đánh chìm một tàu ngầm không rõ nhận dạng ở phía Đông Bắc quần đảo Faroe, tại tọa độ 63°05′B 03°10′Đ / 63,083°B 3,167°Đ / 63.083; 3.167 vào ngày 16 tháng 5, và có thể đó là U-240.[5] Tuy nhiên cuộc tấn công này đã nhắm vào tàu ngầm U-668 mà không gây hư hại nào.[1]

Tham khảo

[sửa | sửa mã nguồn]

Chú thích

[sửa | sửa mã nguồn]
  1. ^ a b c d e f g h i j k l Helgason, Guðmundur. “The Type VIIB U-boat U-240”. German U-boats of WWII - uboat.net. Truy cập ngày 30 tháng 7 năm 2024.
  2. ^ a b c d e f g h i j k l m n o p q r Helgason, Guðmundur. “Type VIIC”. German U-boats of WWII - uboat.net. Truy cập ngày 30 tháng 7 năm 2024.
  3. ^ a b Helgason, Guðmundur. “War Patrols by German U-boat U-240”. German U-boats of WWII - uboat.net. Truy cập ngày 30 tháng 7 năm 2024.
  4. ^ a b c d Gröner, Jung & Maass 1991, tr. 43–46.
  5. ^ Bowman 2014.

Thư mục

[sửa | sửa mã nguồn]

Liên kết ngoài

[sửa | sửa mã nguồn]
  • Helgason, Guðmundur. “The Type VIIC boat U-240”. German U-boats of WWII - uboat.net. Truy cập ngày 30 tháng 7 năm 2024.
  • Hofmann, Markus. “U 240”. Deutsche U-Boote 1935-1945 - u-boot-archiv.de (bằng tiếng Đức). Truy cập ngày 30 tháng 7 năm 2024.